Hoạt động như tàu chiến-tuần dương Courageous_(lớp_tàu_sân_bay)

Sơ đồ chiếc Glorious như một tàu chiến-tuần dương

Hai chiếc đầu tiên trong lớp Courageous và Glorious trải qua Chiến tranh Thế giới thứ nhất tuần tra tại Bắc Hải, lên đến cao trào trong trận Heligoland Bight vào tháng 11 năm 1917. Chiếc nữa chị em với chúng Furious được thiết kế với một cặp pháo 18 inch (457 mm) thay vì bốn khẩu 15 inch (381 mm), nhưng được cải biến đang khi chế tạo để có một sàn cất cánh và hầm chứa máy bay thay cho tháp pháohầm đạn phía trước. Nó thực hiện một số chuyến tuần tra tại Bắc Hải trước khi tháp pháo phía sau cũng được tháo dỡ nốt để bổ sung thêm một sàn hạ cánh. Máy bay của nó đã tấn công căn cứ của khí cầu Zeppelin trong cuộc Không kích Tondern vào tháng 7 năm 1918.[1]

Cả ba chiếc đều được đưa về lực lượng dự bị sau chiến tranh. Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 đã quy định giới hạn tổng tải trọng tàu chiến mà mỗi nước tham gia Hiệp ước được sở hữu, mọi chiếc vượt quá giới hạn này phải bị tháo dỡ. Tuy nhiên, cho đến những tàu hiện hữu có thể được cải biến thành tàu sân bay, và Hải quân Hoàng gia đã chọn những chiếc trong lớp Courageous do tốc độ nhanh của chúng. Mỗi chiếc được tái cấu trúc với một sàn cất-hạ cánh trong những năm 1920.[2]